Trước khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, ngày
15-7-1954, Ban Chấp hành Trung ương Đảng hợp Hội nghị lần thứ 6 (khóa II) xác
định: Đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương
và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở mục tiêu không thay đổi, Nhân
dân ta cần phải chuyển hướng phương châm, chính sách và sách lược đấu tranh cho
phù hợp với điều kiện lịch sử mới.
Hiệp định đình chỉ chiến sự
ở Việt Nam được ký ngày 20-7-1954 quy định lấy vĩ tuyến uyến 17 làm giới tuyến
quân sự tạm thời để lực lượng hai bên tập kết, Quân đội nhân dân Việt Nam tập
kết ở phía Bắc, quân đội liên hiệp Pháp ở phía Nam. Giới tuyến quân sự chỉ có
tính chất tạm thời, không có giá trị là ranh giới chính trị hay lãnh thổ. Miền
Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời đặt dưới sự quản lý của đối phương
và quy định thời hạn tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam vào
tháng 7-1956.
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Để thực hiện hòa bình, bước đầu
tiên là quân đội hai bên phải ngừng bắn. Để ngừng bắn, thì cần phải tách quân
đội hai bên ra hai vùng khác nhau: tức là điều chỉnh khu vực. Điều chỉnh khu
vực là việc tạm thời, là bước quá độ để thực hiện đình chiến, lập lại hòa bình
và tiến đến thống nhất nước nhà bằng cách tổng tuyển cử... Đó là một việc cần
thiết. Nhưng Trung - Nam - Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống
nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng".
Tại Nam Bộ, thực hiện sự chỉ
đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phân liên Khu miền Đông, Phân
liên Khu miền Tây và Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn vừa tổ chức học tập quán triệt
nhiệm vụ chuyển hướng đấu tranh, vừa gấp rút triển khai thực hiện các điều
khoản của Hiệp định. Từ đầu tháng 8-1954, hoạt động tác chiến trên chiến trường
Nam Bộ giảm hẳn. Khắp nơi, Nhân dân, các cơ quan kháng chiến và đơn vị vũ trang
tổ chức hội nghị mừng công, mít-tinh chào mừng thắng lợi của chiến dịch Điện
Biên Phủ và học tập nội dung Hiệp định Giơ-ne-vơ. Nhằm đào tạo lực lượng cán bộ
cho sự nghiệp cách mạng lâu dài, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Trung ương Đảng
đã có quyết định mang tầm chiến lược, là đưa một số lượng không nhỏ cán bộ,
chiến sĩ, con em đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc để tiếp tục học tập. Đây
không chỉ là đợt chuyển quân thông thường, mà còn là đợt chuyển quân mang trong
đó những chủ trương, chính sách về quản lý, đãi ngộ, sử dụng và đào tạo, bồi
dưỡng một đội ngũ cán bộ, chiến sĩ, vừa góp phần cho công cuộc xây dựng CNXH ở
miền Bắc, vừa chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam sau
này.
Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ,
chỉ tập kết lực lượng quân sự, vì vậy để hợp lý hóa, cán bộ, học sinh và con em
gia đình cách mạng đều phải mang quân trang, quân phục khi xuống tàu ra Bắc.
Hiệp định cũng đã quy định rõ ba khu tập kết tạm thời và thời gian tập kết
(tính từ ngày 21-7-1954) trước khi lên tàu ra miền Bắc, gồm: khu tập kết
Tại Hàm Tân - Xuyên Mộc (Bà
Rịa - Vũng Tàu) trong thời gian 80 ngày (đến 6 giờ ngày 11-10-1954); khu tập
kết tại Cao Lãnh - Đồng Tháp Mười (tỉnh Long Châu Sa, nay là tỉnh Đồng Tháp)
trong thời gian 100 ngày (đến 6 giờ ngày 30-10-1954) và khu tập kết tại Chắc
Băng, Cà Mau trong thời gian 200 ngày (đến 6 giờ ngày 10-2-1955).
Sau khi tổ chức mít-tinh
mừng chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne- vơ, các địa phương, cơ quan
kháng chiến và lực lượng vũ trang các cấp tiến hành lập danh sách, phân loại,
cử người tiếp tục ở lại và người đi tập kết. Trong vòng một tháng, lực lượng
tập kết chuyển quân đã hành quân an toàn về các khu vực tập kết theo quy định,
trong sự tiễn đưa lưu luyến của Nhân dân địa phương. Tại đây, các đơn vị vũ
trang cùng cán bộ các ngành dân - chính - đảng được sắp xếp lại, tổ chức thành
các trung đoàn hành quân.
Tại Phân liên Khu miền Đông
(bao gồm cả Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn), lực lượng tập kết chuyển quân có tổng
cộng 14.635 người, gồm: 19 tiểu đoàn và tám đại đội vũ trang chiến đấu; hai
tiểu đoàn quân tình nguyện Việt Nam tại miền Đông Cam-pu-chia; bộ phận phân
liên khu bộ và các cơ quan phân liên khu, trung đoàn bộ, tỉnh đội; bộ phận đặc
khu bộ và các cơ quan Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn.
Tại Phân liên Khu miền Tây,
lực lượng tập kết chuyển quân được tổ chức thành bốn trung đoàn, quân số tổng
cộng có 13.327 người, gồm: Trung đoàn 1 (Tiểu đoàn 307, bộ đội địa phương và du
kích các tỉnh Bến Tre, Vĩnh Trà);
Trung đoàn 2 (Tiểu đoàn 410, bộ đội địa phương và du kích các tỉnh Cần Thơ,
Long Châu Sa); Trung đoàn 3 (Tiểu đoàn 308, bộ đội địa phương và du kích các
tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Vĩnh Trà); Trung đoàn 4 (các cơ quan tham mưu, chính
trị, cung cấp, quân nhu, các đơn vị binh chủng).
Riêng đối với Tây Ninh, có
283 cán bộ, đảng viên, chiến sĩ của tỉnh cùng một số cán bộ của Phân liên Khu
miền Đông từ chiến khu Dương Minh Châu chuyển về khu tập kết 100 ngày tại Cao
Lãnh, tỉnh Long Châu Sa và được biên chế vào lực lượng Trung đoàn 656 ra miền
Bắc.
Lực lượng tập kết chuyển
quân thuộc các cơ quan dân - chính - đảng được bố trí chung trong các trung
đoàn chuyển quân và chịu sự chỉ huy chung của ban chỉ huy chuyển quân từng khu
vực do Uỷ ban Kháng chiến - Hành chính Nam Bộ chỉ định. Về tổ chức Đảng, Trung
ương Cục miền Nam ra nghị quyết về tổ chức Đảng ủy chuyển quân và tổ chức Đảng
trong khối dân - chính - đảng. Theo đó, Đảng ủy chuyển quân gồm có các trung
đoàn ủy và một số đồng chí trong lực lượng dân chính - đảng tập kết theo các
trung đoàn.
Từ ngày 26-8-1954, các con
tàu vận tải mang tên Ác-khăng-ghen, Xta-ze-rô-pôn (của Liên Xô), Ki-lin-ky (của
Ba Lan) bắt đầu đưa những đoàn cán bộ chiến sĩ tập kết của Nam Bộ ra miền Bắc.
Ngày 25-9-1954, đoàn chuyển quân đầu tiên ở khu vực Hàm Tân - Xuyên Mộc cập bến
Sầm Sơn (Thanh Hóa). Đến cuối tháng 10-1954, toàn bộ lực lượng tập kết ở hai
khu vực Hàm Tân - Xuyên Mộc và Cao Lãnh - Đồng Tháp Mười ra đến miền Bắc an
toàn. Ngày 8-2-1955, chuyến tàu cuối cùng chuyển quân ở Nam Bộ từ khu vực Cà
Mau ra đến miền Bắc. Đến đây, việc tập kết chuyển quân ở chiến trường Nam Bộ
được hoàn tất. Trong hàng ngũ bộ đội Nam Bộ đã ra tập kết, có đủ mặt các đơn vị
đã chiến đấu trong suốt 8, 9 năm ở miền Đông và miền Tây, ở Đồng Tháp Mười hoặc
dọc sông Cửu Long, có các chiến sĩ du kích đã từng lăn lộn sau lưng địch trong
vùng ngoại ô Sài Gòn - Chợ Lớn hay ở ngay trong các đô thị. Trong lực lượng của
Liên khu 5 tập kết ra Bắc có các đơn vị đã từng chiến thắng ở Kom Tum, An
Khê-Gia Lai, những đơn vị đã từng giữ vững các vùng độc lập của miền cực Nam
trong suốt 8, 9 năm, những đơn vị chiến đấu của đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên.
Các đơn vị tình nguyện đã từng chiến thắng trên chiến trường Lào và Cam-pu-chia
cũng đã về đến nơi. Toàn thể các cán bộ và chiến sĩ đều hăng hái và phấn khởi,
họ đã kiên quyết chấp hành lệnh ngừng bắn, tập kết và chuyển quân, đã kiên
quyết tạm xa miền Nam yêu quý, để tỏ rõ tinh thần kỷ luật và ý chí yêu chuộng
hòa bình của quân và dân ta..."
Trong hiệp định Giơ-ne-vơ đã
quy định thời hạn tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam vào tháng
7-1956 nên toàn thể Nhân dân miền Nam tập kết ra Bắc đều tin rằng, sau hai năm
sẽ trở về, trước khi lên tàu các cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân miền Nam vẫy tay
tạm biệt người thân, bạn bè, chiến hữu bằng cách giơ hai ngón tay lên hàm ý hai
năm sẽ gặp lại; nhưng cuộc chuyển quân đó đã kéo dài đến tận 20 năm sau. Qua 70
năm, những cán bộ, chiến sĩ, học sinh tập kết ra miền Bắc, nhiều người đã trở
thành cán bộ, lãnh đạo các cấp; các tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp, các nhà khoa
học đầu ngành ở nhiều lĩnh vực, các văn nghệ sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà báo nổi
tiếng, nhiều doanh nhân tài ba, nhiều người đã trở thành Anh hùng lực lượng vũ
trang, Anh hùng lao động... góp phần làm rạng danh quê hương, đất nước.
Sự kiện chuyển quân tập kết
ra Bắc là cuộc chuyển cư lịch sử của thế kỷ XX, cuộc chuyển cư này đã góp phần
đưa lịch sử Việt Nam thành bộ phận quan trọng, nổi bật của lịch sử thế giới
trong những năm 1950 - 1975 của thế kỷ trước. Sự kiện này cũng chứng tỏ rằng,
Nhân dân hai miền Nam - Bắc luôn đoàn kết một lòng vượt qua muôn vàn khó khăn,
gian khổ, dũng cảm trong xây dựng và chiến đấu ở mọi thời kỳ cách mạng của dân
tộc, góp phần viết nên những trang sử oanh liệt trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.